Tình trạng kháng thuốc kháng sinh không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn nạn toàn cầu. Tổ chức Y tế thế giới WHO cảnh báo tình trạng kháng thuốc kháng ngày càng gia tăng và nguy hiểm không kém đại dịch COVID 19. Tổng Giám đốc WHO cho rằng tình trạng này làm thụt lùi nên y học của thế giới, đảo ngược những tiến bộ y học trong 1 thế kỷ. Tình trạng kháng kháng sinh khiến con người không còn khả năng tự bảo vệ trước các bệnh nhiễm trùng.
Mục lục
KHÁNG THUỐC KHÁNG SINH LÀ GÌ?
Kháng thuốc kháng sinh là tình trạng các vi sinh vật (vi trùng, vi khuẩn, nấm) biến đổi khi chúng tiếp xúc với các loại thuốc kháng khuẩn (thuốc kháng sinh, kháng nấm, kháng virus). Các vi sinh vật này ngày càng thay đổi, phát triển lớn mạnh và trở nên miễn dịch với các loại thuốc. Cơ thể người không còn khả năng tự bảo vệ trước sự xâm nhập của chúng.
ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI TÌNH TRẠNG KHÁNG KHÁNG SINH?
-
Các vi sinh vật có khả năng kháng thuốc
- Vi khuẩn đột biến gen, tạo enzyme phân hủy hoặc biến đổi cấu trúc của kháng sinh
Một số vi khuẩn tiết ra men betalactamase phá hủy vòng lactam làm mất tác dụng diệt khuẩn của kháng sinh nhóm Beta Lactam. Một số vi khuẩn tiết enzyme làm biến đổi kháng sinh aminoglycoside khiến kháng sinh này không ức chế được quá trình tổng hợp của vi khuẩn và không thể tác động được tới vi khuẩn gây bệnh.
- Vi khuẩn làm giảm nồng độ và tác dụng của thuốc kháng sinh bên trong tế bào
Sự có mặt của các dòng kháng sinh mới, phổ rộng và ưu việt hơn thì cùng với đó vi khuẩn không ngừng phát triển và biến đổi để đối phó với tác động của kháng sinh. Các vi khuẩn kháng Tetracycline, Macrolide, Quinolone nhờ biến đổi hệ thống bơm chủ động của chính nó khiến kháng sinh không thể vào tế bào vi khuẩn. Một số vi khuẩn củng cố mảng bảo vệ chắc chắn để kháng sinh không tác động được, ví dụ như màng ngoài ở các vi khuẩn gram âm như trực khuẩn mủ xanh.
- Vi khuẩn làm thay đổi đích tác động nên kháng sinh không gắn được vào đích
Lạm dụng kháng sinh, bán và sử dụng kháng sinh không theo đơn, sử dụng kết hợp nhiều loại kháng sinh cùng lúc tạo điều kiện cho vi khuẩn đột biến. Kháng sinh Penicillin muốn có tác dụng diệt khuẩn trước tiên phải gắn được vào các phân tử protein (PBPs) của vi khuẩn phế cầu, nhưng do quá trình đột biến phân tử PBPs làm kháng sinh không nhận diện ra vi khuẩn do đó không tác động được đến và tiêu diệt chúng.
-
Do tình trạng lạm dụng kháng sinh
Tại Việt Nam, cơ chế quản lý lỏng lẻo, mọi người có thể tự mua kháng sinh dễ dàng, không cần theo đơn. Người bán thuốc bán kháng sinh liều cao ngay từ đầu khi chưa biết rõ tình trạng bệnh của người bệnh. Theo Bộ Y tế, từ năm 2009 đến nay, số lượng thuốc kháng sinh ở Việt Nam bán ra đã tăng gấp hai lần, 88% thuốc kháng sinh được bán tại các thành phố mà không cần kê đơn, ở nông thôn tỷ lệ này lên đến 91%.
- Đối với các bác sĩ, việc kê đơn thuốc kháng sinh cũng cần tuân thủ, từ loại kháng sinh nhẹ trước rồi đến loại kháng sinh mạnh sau. Nhưng có một số người vì muốn bệnh nhân khỏi nhanh mà kê luôn loại kháng sinh mạnh ngay từ đầu. Điều này dẫn đến tình trạng vi khuẩn dễ kháng thuốc.
- Người dân nước ta lại rất lạm dụng kháng sinh. Đôi khi chỉ với một vài triệu chứng như ho, hắt hơi, sổ mũi chưa rõ nguyên nhân đã dùng kháng sinh. Sử dụng kháng sinh cũng không đúng theo hướng dẫn, vì muốn khỏi nhanh mà tự ý thay đổi liều lượng. Khi mới uống được vài ngày đã thấy giảm các triệu chứng thì ngừng uống thuốc, lúc này vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại trong cơ thể và có thể biến đổi gây nhờn thuốc và kháng thuốc.
- Sử dụng quá nhiều kháng sinh cho vật nuôi cũng làm gia tăng tình trạng kháng thuốc ở vi khuẩn. Thực phẩm chúng ta ăn hàng ngày như thịt, trứng, sữa… có dư một lượng kháng sinh đáng kể trong đó.
TÌNH TRẠNG KHÁNG KHÁNG SINH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Kháng sinh được nghiên cứu và cho ra đời là bước ngoặt lớn trong Y học nhằm điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên vấn nạn lạm dụng kháng sinh, sử dụng kháng sinh bừa bãi, sử dụng kháng sinh khi không cần thiết…làm gia tăng tình trạng kháng kháng sinh của vi sinh vật gây bệnh. WHO đã đưa Việt Nam vào nhóm các nước có tỷ lệ kháng kháng sinh cao trên thế giới, tỷ lệ kháng kháng sinh chiếm 40%, đứng thứ tư về tình trạng kháng thuốc trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong khi nhiều quốc gia phát triển sử dụng kháng sinh thế hệ 1 vẫn hiệu quả thì Việt Nam đã phải dùng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4.
Thống kê tại các bệnh viện lớn như bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TWQĐ 108, bệnh viện Chợ Rẫy… một số loại vi khuẩn như S.pneumoniae, E.coli, tụ cầu vàng có tỷ lệ kháng kháng sinh rất cao. Cụ thể:
- Chủng S.pneumoniae đã kháng penicillin gần 70%, kháng erythromycin gần 90%;
- Chủng E.coli kháng gentamicin và cefotaxim với tỷ lệ trên 50%;
- Tụ cầu vàng kháng methicillin với tỷ lệ gần 40%.
HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG CỦA KHÁNG KHÁNG SINH
Tình trạng kháng kháng sinh khiến các bệnh nhiễm trùng nhẹ trở nên nặng hơn do không có loại thuốc phù hợp và làm tăng nguy cơ tử vong.
1. Tăng tỷ lệ mắc bệnh và tăng nguy cơ tử vong
Lạm dụng kháng sinh làm xuất hiện nhiều loại vi khuẩn kháng đa thuốc, điều này khiến các bệnh nhiễm trùng ngày càng nặng và không có thuốc để chữa trị khiến người bệnh nguy kịch và dẫn đến nguy cơ tử vong cao. Trên thực tế, ngay cả với những bệnh đơn giản
2. Tăng chi phí, thời gian điều trị
Vì các loại kháng sinh cũ không còn đáp ứng được, không còn tác dụng nên người bệnh cần chi một khoản tiền lớn để dùng kháng sinh mới. Bên cạnh đó, thời gian chăm sóc và phục hồi sau khi dùng kháng sinh liều cao cũng lâu hơn, bệnh nhân cần nằm viện lâu hơn và chi phí cũng theo đó tăng lên.
3. Thay đổi phác đồ điều trị
Kháng sinh phổ hẹp sẽ không còn tác dụng, do đó các chuyên gia, bác sĩ cần thay đổi phác đồ điều trị, hướng dẫn sử dụng để phù hợp với kháng sinh mới. Hơn thế, kháng sinh phổ rộng, đắt tiền sẽ được sử dụng, làm tăng thêm độc tính cho bệnh nhân.
4. Tăng gánh nặng cho gia đình và bệnh viện
Kháng kháng sinh gây nguy hiểm cho chính cơ thể người bệnh, tăng chi phí và thời gian điều trị tăng gánh nặng cho gia đình, người chăm sóc. Ngoài ra, các cơ sở chăm sóc y tế không còn thuốc kháng sinh để cứu chữa kịp thời, quá tải bệnh viện do quá trình điều trị kéo dài, nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn với các bệnh nhân phải phẫu thuật.
WHO cho rằng đại dịch kháng kháng sinh dẫn đến tăng chi phí điều trị, điều trị thất bại, cơ thể con người không còn khả năng chống lại sự phát triển mạnh mẽ của vi khuẩn, bệnh nặng và có thể dẫn đến tử vong. Bởi vậy, có thể coi đại dịch kháng kháng sinh nguy hiểm không kém đại dịch COVID.
Bài viết này có hữu ích không?